Latest Post

[full_width] Vào những ngày cuối năm, không khí Tết nhộn nhịp, người người tuôn về quê hương xứ sở; quay về nơi mà những người thân yêu đang chờ đoàn tụ gia đình. Tôi cũng trong hành trình về Bắc trong dịp Tết Nguyên Đán năm đó. Hành khách trên máy bay rất đông. Khuôn mặt ai cũng như háo hức một điều gì đó khó diễn tả. Phía bên trái tôi là một người đàn ông chừng 50 tuổi và phía bên phải tôi là một một người phụ nữ chừng 40. Sau những lời chào xã giao, tôi biết người đàn ông là một người theo cái nghề "đặc biệt" và người phụ nữ là một doanh nhân và tôi tự giới thiệu là một giảng viên Đại Học.

“Tết thì người ta về quê; còn chết thì người ta về đâu nhỉ?” Tôi hỏi bâng quơ… Người đàn ông cười nhếch mép và nói: “Lo gì xa thế ông bạn? Sống là cho mình và cho hiện tại thôi…” Người phụ nữ bên cạnh quay sang nói với người đàn ông: “Em lo nhất điều đó! Nếu chết, không biết số phận tôi như thế nào? Thế nên em phải đi Chùa thường xuyên.” Người đàn ông đáp lại người phụ nữ: “Chùa chiền, hay Thiên Chúa cũng chẳng giúp được mình đâu! Tất cả các tôn giáo chỉ là phản ánh những ước mơ của con người mà thôi… Làm gì có Niết Bàn! Làm gì có Thiên Đàng…! Làm gì có Thiên Chúa!!!” Tôi đang cố gắng suy nghĩ để đưa ra câu trả lời thì người phụ nữ lại đáp người đàn ông: “Nhưng nếu không đến Chùa, em cảm thấy không yên tâm…” Người đàn ông đáp lại: “Cái làm cho người ta không an tâm cũng là do sợ bị nghèo đói và túng thiếu… Người ta hi vọng ở tôn giáo một sự cung cấp về mặt vật chất và yên ổn trong công việc làm ăn. Điều này chẳng bảo đảm chút nào cả, vì có người xin mãi cũng không được gì! Tôi chẳng tin gì, mà vẫn không sợ mình không đủ ăn. Bàn tay con người làm ra tất cả…!”

Bầu khí xung quanh trở nên yên tĩnh cách lạ thường. Người phụ nữ thiếp ngủ. Một lát sau, tôi bắt đầu chuyển qua những đề tài kinh tế, đời sống con người để nói với người đàn ông. Khi nhận thấy đã có sự đối thoại vui vẻ với nhau như là những người bạn, tôi nghĩ đây là lúc thích hợp để trở lại vấn đề cũ (đức tin). Tôi hỏi người đàn ông: “Trong cuộc sống, ông ao ước về điều gì nhiều nhất?” Ông ta trả lời: “Hạnh phúc!” Tôi mới bèn hỏi lại: “Vậy có đủ tiền là có hạnh phúc rồi?” Ông ta đáp lại: “Cũng không hẳn thế ông bạn ah! Chắc còn cần đến tình yêu nữa. Nhiều lúc tôi mơ về một tình yêu đích thực trong tương quan gia đình và bạn bè. Tình yêu giữa con người. Tôi ao ước một điều gì đó thật Hạnh Phúc, thật Đẹp, và Công Bằng.” Điều người đàn ông nói giúp tôi nhớ lại về một kinh nghiệm siêu nghiệm của Karl Rahner - một nhà thần học Dòng Tên, đã nói: một kinh nghiệm được lôi cuốn về cái gì đó rất linh thiêng được ví như là Chân, Thiện, Mỹ hay đúng hơn là gì đó không thể diễn tả. Cái đó là chính Thiên Chúa tự tỏ lộ cho ta. Kinh nghiệm này xảy ra với mọi con người, nhưng nó là siêu nghiệm, không rõ ràng với trí khôn con người. Kinh nghiệm này chỉ được diễn tả dưới dạng phạm trù. Tôi bèn hỏi ông ta tiếp: “Khi ước mơ về những điều này, ông có dám quyết định để sống theo không?” Ông ta trầm ngâm và lắc đầu: “Tôi không dám theo. Nhiều khi tôi áy náy trước những bất công, áy náy về những sai trái của mình, nhưng không biết phải làm sao.” “Ông biết điều đó là đúng và mang đến cho ông sự hạnh phúc, tại sao ông không làm?”, tôi tiếp tục hỏi ông ta. Ông trả lời: “nếu sống theo lương tâm và theo ước mơ của mình, tôi sẽ bị xa thải khỏi guồng máy của xã hội này. Tôi cũng sợ. Tuy nhiên, khi đứng trước ước mơ cao đẹp (Ao ước sống hạnh phúc - kinh nghiệm siêu việt) tôi cảm thấy có một cuộc sống thanh thoát và tự do; nhưng khi đối diện với những vấn đề của cơm áo gạo tiền, tôi lại sợ hãi.” Tôi lại hỏi tiếp: “Như vậy, tại sao ông khước từ Thiên Chúa nơi tôn giáo?” Ông đáp lại: “Bên ngoài thì tôi có vẻ từ chối, nhưng bên trong, tôi đồng ý nhiều điều với lòng tin của người Công Giáo. Nơi niềm tin này, người Công Giáo có thể diễn tả là mình trước một Thiên Chúa họ tin. Họ đã để Thiên Chúa lôi cuốn mình. Còn tôi, do ảnh hưởng quá nhiều với tư tưởng của những triết gia vô thần như Feuerbach và Karl Max, tôi đã nỗ lực rất lớn để chống lại những ai có niềm tin tôn giáo và muốn diệt trừ ý niệm về Thiên Chúa. Thật tức cười, tôi càng phản đối niềm tin của họ, thì họ càng tin hơn. Không biết bao giờ sự phủ nhận về niềm tin của chúng tôi kết thúc? Điều đáng tức cười hơn là chúng tôi như bị sự phủ nhận niềm tin này ám ảnh. Lúc nào nó cũng đeo bám chúng tôi và khiến chúng tôi cứ phải tìm ra lý do để biện minh những điều đi ngược lại với lương tâm của mình. Đôi khi tôi cảm thấy mệt mỏi lắm, nhưng vẫn nhủ lòng mình là hãy nỗ lực. Hình như trong những nỗ lực, thì đây là một nỗ lực lớn nhất trong cuộc đời để xóa đi cái tên “Thiên Chúa” trong đầu tôi; tuy nhiên nỗ lực của tôi lại bằng thừa, vì tôi đã không thể làm được chuyện này.” Câu chuyện đang đi vào một sự tĩnh lặng lạ thường, đột nhiên người phụ nữ bên cạnh cất tiếng về phía người đàn ông: “Oh, thì ra anh cũng có lo lắng đấy chứ! Xem chừng cái thao thức của anh về tôn giáo còn mạnh hơn em đấy!” Người đàn ông ấp úng, “nhưng… nhưng… cái lo lắng của tôi không phải là mê tín như những người đi Chùa kìa.” Tôi nghe xong thì cười và tự nói với lòng mình: “Ngày Tết, người ta về quê, phải chăng khi chết ai cũng phải về với Cha?”

Cuộc nói chuyện giữa tôi và ông cán bộ đi vào một chiều sâu thiêng liêng. Tôi thực sự không ngờ rằng ông ta sẽ chia sẻ những điều ấp ủ trong tâm hồn. Tuy nhiên, ngang qua chia sẻ của ông, tôi khám phá ra một giá trị luôn luôn hiện hữu. Đó chính là một hình ảnh Thiên Chúa vô hình luôn tác động và mạc khải Tình Yêu của Ngài trên mọi con người, dù người ta có muốn chối bỏ thực tại này. Như vậy, việc hướng về Thiên Chúa và được chính Thiên Chúa cho hướng về là một điều gì đó luôn xảy ra đời sống con người. Điều quan trọng là ta có dám sống cho sự lôi kéo đó không, hay mình cứ mãi cưỡng lại cho đến khi mệt mỏi, để rồi phải thốt lên như người đàn ông rằng: “Từ chối ý niệm Thiên Chúa là một nỗ lực lớn nhất trong cuộc đời của tôi… nhưng nỗ lực lại là thừa; vì tôi hoàn toàn bất lực trong việc chối bỏ này.”
Văn Ngụ
18/1/2013

Chiều nay (22/12) đi tĩnh tâm ở nhà thờ Fatima, ngày cuối của chuỗi 3 ngày tĩnh tâm của giáo xứ tổ chức. Cũng trong chiều nay các anh chị trong nhóm cũng mời gọi đi tĩnh tâm. Nhưng cuộc sống là sự chọn lựa. Và "Đây tĩnh tâm, đó tĩnh tâm thì cũng là tĩnh tâm ^^". Cuối cùng tôi quyết định chọn tĩnh tâm gần nhà!
Sau đây là một vài tâm tình đọng lại (nhớ mang máng) được cha giảng tĩnh tâm chia sẻ, với chủ đề là:

BÌNH AN TRONG TÂM HỒN


Cha đã nhấn mạnh sự quan trọng và nhắc đi nhắc lại những nguyên nhân gây mất bình an trong tâm hồn.

Có 4 nguyên nhân chính:

Đức tin: Không tin thì làm sao có sự bình an. Không tin thì khi đi xưng tội Chúa làm sao tha tội cho ta. Nhưng mà cũng cần cẩn thận với xã hội hôm nay, kẻo tin vớ vẩn, chuốc hại vào thân, hay là tin mù quáng gây ảnh hướng người khác.

Tội lỗi: Tội lỗi làm cho con người luôn sống trong bất an. Khi ta phạm tội gì đó, thì lương tâm áy náy, tâm hồn không bình an. Nhưng khi ta đi xưng tội, sám hối ăn năn, dốc lòng chừa cải thì tâm hồn ta sẽ cảm thấy bình an trở lại.

Lo sợ: Người mà luôn lo sợ thì làm sao bình an được. Nào là ra đường sợ xe tông. Đi qua nghĩa trang sợ ma chẳng hạn. Luôn trong tình trạng sợ sệt, từ những cái nhỏ nhặt như con chuột chạy qua cũng sợ, thấy cái mạng nhện cũng sợ... Thử hỏi rằng, như vậy làm sao đem lại bình an.

Vật chất: Suốt ngày cứ lo công việc, bám lấy công việc, và cứ nghĩ tới tiền, làm sao để có nhiều tiền, làm ra nhiều tiền, có nhiều tiền rồi thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Thử hỏi rằng, tiền có mua được sự bình an tâm hồn không. Rồi lúc nào trong đầu cũng nghĩ tới công việc dù là ngày nghĩ lễ mà trong đầu cứ nghĩ tới công việc thì hỏi rằng, bình an nằm ở đâu.

Ngoài ra, theo ACE thế gian này có hạnh phúc hay không?
Xin thưa là có, nhưng là hạnh phúc thoáng qua, thoảng như mây trôi. Ví dụ đang đói meo mà có tô phở ăn thì hạnh phúc quá đi chứ. Rồi là, đang khát mà có trái dừa uống thì cũng hạnh phúc chứ. V.v..

Vậy, chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta. Khi có bình an trong tâm hồn sẽ có hạnh phúc. Và khi chúng ta biết bám víu vào Chúa, thì chắc chắn sẽ tìm được bình an trong tâm hồn. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).

Xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh cho chúng ta được "Bình an trong tâm hồn".
Xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta được "Bình an trong tâm hồn".
___

Kính chúc các Cha, các Soeur, các Thầy, các Anh Chị, các Bạn, các Em và toàn thể GĐ Thiên Ân, có mùa Giáng Sinh “bình an trong tâm hồn”, anh lành, thánh thiện, vui tươi. Và năm mới an khang thịnh vượng, mạnh khỏe và thành công.
Kính chúc.
QuocBao
23/12/2012


Đầu tháng 11, Bề Trên nhờ tôi lo một số giấy tờ; từ đó, tôi bận rộn hơn, vì ngoài công việc phụ trội này thì những công việc khác vẫn không bớt đi, chưa kể là còn được “cho thêm.” Tôi lúc nào cũng trong tình trạng “nợ nần” vì chưa tròn bổn phận. Không còn nhiều thời gian dành cho Gia Đình Thiên Ân như trước, tôi thỉnh thoảng mới chia sẻ vài suy tư và cảm nghiệm. Bận rộn là thế, tôi lặng lẽ rời “nhà” với ý nghĩ đen tối rằng khi nào thuận tiện sẽ về thăm.

Trong thời gian này, tôi nhận được mấy tin nhắn, đại loại: sao lâu rồi không thấy, 16 này đi làm hang đá nhé, Giáng Sinh này đi trại phong nha. Có một tin nhắn làm tôi xúc động, “Mong Dì sớm trở về nhà.” Tối qua, một tin nhắn khác lại đến với tôi, “Tại sao Dì không chịu trở về nhà?” Tôi cười bảo, “Web có vào được đâu.”

Sáng ra, chuông nguyện đường đổ dồn, tôi thức dậy ngợi khen Chúa, dâng ngày, rồi dọn giường. Trong khi dọn giường, cái câu nói “Mong Dì sớm trở về nhà” và “Tại sao Dì không chịu trở về nhà?” đột nhiên xuất hiện trong tôi. Rất nhanh, nó gõ vào trí tôi, như một lời trách móc và mời gọi của Đấng tôi quyết tâm trọn đời theo đuổi, “Sao không trở về nhà? Mong con sớm về nhà.” Từ giây phút ấy và suốt giờ suy gẫm, cho đến nay, tôi cứ miên man gẫm suy…

“Về nhà.” Tôi có nhà nào để về? Nhà cha mẹ ư? Tôi đã rời xa từ thuở bé để theo đuổi việc học và tập tu. Nhà Thiên Ân ư? Đó không là một nơi chốn cho tôi cư ngụ. Nhà Dòng ư? Tôi vẫn đang ở đấy thôi, nhưng đấy cũng chỉ là một chốn tạm bợ ở đời này. Nhà, tôi muốn nói, đó là cung lòng Thiên Chúa, là nội tâm lòng tôi.

“Sao không trở về nhà?” Khi nhìn xung quanh và nhìn vào chính cõi lòng mình bằng ánh mắt của Thiên Chúa, tôi thấy tôi đang không-ở-trong-nhà; thậm chí đang ở rất xa nhà, xa Cha. Chẳng phải tôi lúc nào cũng xét đoán và kết án người khác đó sao? Chẳng phải tôi lúc nào cũng thiếu bác ái, tha thứ, và yêu thương anh chị em đó sao? Chẳng phải tôi đã không nhiều lần chiều theo những cám dỗ hay cố tình phạm tội làm buồn lòng Cha đó sao? Tôi đã luôn gạt bỏ những lời khuyên nhủ của Cha để sống theo bản tính tự nhiên của mình, và để được tự do, tôi đã rời nhà, bỏ Cha, chạy theo những ảo ảnh và bóng mát bên đường đó sao?

“Mong con trở về nhà.” Có những phút giây nào đó nhớ Cha, tôi cũng mong được trở về, nhưng tôi chưa đủ dứt khoát. Cũng có lúc thật lòng muốn về, nhưng tôi e ngại, mặc cảm mình tội lỗi, Cha không thương. Bởi đó, dù quyết tâm hết lần này đến lần khác, nhưng cuối cùng tôi cũng chỉ đứng xa xa mà mong chờ, mà ngóng đợi. Mong chờ, ngóng đợi mãi cũng vẫn chỉ là hoài mong. Nó cần được thể hiện bằng hành động. Tôi cứ tưởng rằng mọi mong chờ của tôi đều là việc tôi chờ mong Cha, thật ra, Cha còn chờ mong tôi hơn cả tôi mong chờ Ngài. Tôi ơi, về nhà thôi.

Thưa Cha, trong những ngày còn lại của Mùa Vọng này, con mong về với Cha, nơi căn nhà nội tâm của lòng con, vì con biết Cha ở ngay đó, đang chờ con. Xin cho con trở về, thật sự trở về; không phải vì đói ăn, thiếu mặc; mà vì nơi đó có Cha. Con vọng – ngóng trông về với Cha bởi chỉ nơi Cha con mới được sung mãn và no đầy, và chỉ mình Cha mới đủ sức cảm hoá và thánh hoá con người con, để nhờ đó con cũng biết yêu người như Cha dạy con phải hằng luôn mến yêu. Con vọng – hoài mong về với Cha, bởi con biết Cha cũng hoài vọng – ngóng trông con quay trở về.
A. Ngọc Hạnh, LCSP
15/12/2012


Lời Chúa: Lc 21, 25-28.34-36

Ðức Giêsu nói về ngày Quang lâm của Người rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

Suy niệm:

Cuộc sống con người đầy những bất ngờ. Có những điều tôi nghĩ sẽ không bao giờ xảy ra, thậm chí tin chắc sẽ không thể xảy ra được, vậy mà thực tế chúng lại xảy ra. Có những bất ngờ thú vị làm tôi ngất ngây. Có những bất ngờ đớn đau làm tôi hụt hẫng. Lắm người đi coi bói để biết trước tương lai, hầu mong tránh được những bất ngờ bi thảm. Người Kitô hữu tin rằng vũ trụ sẽ có ngày cùng tận, lịch sử sẽ kết thúc bằng biến cố Ðức Kitô quang lâm. Nhưng khi nào chuyện đó xảy ra, chẳng ai biết được. Nó giống như tấm lưới bất thần chụp xuống trên tất cả dân cư trên mặt đất. Thiên Chúa có tàn nhẫn không khi cứ thích cái bất ngờ, khi cứ để cho con người sống trong thấp thỏm?

Thật ra cái bất ngờ chỉ đáng sợ khi Ngài đến mà đèn chúng ta đã cạn dầu, và những nén bạc Ngài giao vẫn còn bị chôn giấu. Nếu chúng ta luôn thanh thoát, sẵn sàng, thì việc Ngài đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Chúng ta dễ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim chúng ta dễ bị trì trệ, nặng nề, vì ăn nhậu say sưa, vì nuông chiều thân xác, hay vì quá lo lắng cho cuộc sống hiện tại. Cả những lo lắng chính đáng cũng có thể kéo ta đi xa, và làm ta đánh mất khả năng dừng lại. Chúng ta bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống mà quên tìm lẽ sống. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những điều kinh khủng những xáo trộn sâu xa trong vũ trụ vào ngày Chúa đến. Chúng ta không nên hiểu mọi hình ảnh ấy theo nghĩa đen. Ðiều quan trọng hơn là những xáo trộn nơi lòng người: lo lắng hoang mang sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc. Khi Ðức Giêsu ngự đến uy nghi như vị Thẩm Phán, nhiều người sẽ khiếp sợ rụng rời trước nhan Ngài, nhưng đối với những ai đã tỉnh thức, cầu nguyện, thì đây lại là giây phút được mong đợi từ lâu. Ðấng họ chỉ thấy trong lòng tin, nay được diện đối diện. Ðây là cuộc hạnh ngộ giữa những người yêu nhau. Chúa nhận ra tôi, tôi nhận ra Chúa, Và tôi hiểu rằng chẳng gì có thể chia lìa được chúng tôi. Tư thế của người biết mình sắp được giải thoát là tư thế đứng, đứng thẳng, đứng vững, đầu ngẩng cao, lòng tràn ngập hy vọng và hân hoan vui sướng trước chiến thắng dứt khoát và trọn vẹn của Vua Giêsu. Mùa Vọng nhắc ta lần đến đầu tiên của Con Chúa, và nhắc ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Ngài. Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Xin cho tôi luôn đứng thẳng, cao đầu ra đón Ngài, chẳng chịu bỏ lỡ một lần cùng Ngài gặp gỡ.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,
không có giờ đi vào sa mạc
để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.
Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.
Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu
là con có thể tạo ra sa mạc.

Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa
mà con đã bỏ mất:
Khi chờ một người bạn,
chờ đèn xanh ở ngã tư,
chờ món hàng đang được gói.
Khi lên cầu thang,
khi đến nơi làm việc,
khi kẹt xe,
khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột
con lại thấy mình sống an bình
trong sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa,
những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày
giúp con tỉnh thức
để nhạy cảm với ý Chúa.

Xin cho con yêu mến Chúa hơn
để tìm ra những sa mạc mới
và vui vẻ bước vào.

(gợi hứng từ Madeleine Delbrêl)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Thứ Tư sau CN XXXI TN - Lời Chúa: Lc 14, 25-33

Cuộc sống càng phát triển thì nhu cầu con người cũng ngày càng tăng. Giữa đua tranh lợi nhuận, vàng thau lẫn lộn, người ta hoang mang nghi ngại làm sao chọn được một món hàng tốt, thực phẩm ngon, chuyến xe an toàn, ngôi trường uy tín, hay thầy giáo giỏi tận tâm. “Chất lượng cao” trở nên như tiêu chí hàng đầu cho người có nhu cầu, từ sản phẩm, văn hoá, giáo dục, cho đến con người. Chúa Giêsu hôm nay cũng trong tiến trình tuyển chọn “môn đệ chất lượng cao” để đào luyện và sai đi cho cánh đồng truyền giáo của Người.

Người ta đến với Người, đông lắm. Chẳng cần hỏi tên tuổi, quê quán, hay văn bằng, Đức Giêsu nhìn họ rồi bảo, “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ* cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Mt 14, 26-27).

Điều kiện để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu lạ lùng, thật lạ lùng. Phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống mình; và phải “vác thập giá mình.” Hội được những điều kiện này thì người đó mới “xứng đáng làm môn đệ” Người.

Có mâu thuẩn không khi chính Chúa Giêsu đã dạy phải yêu người, kể cả kẻ thù? Từ bỏ mạng sống như thế thì làm sao sống được? Ghét cha mẹ, anh em, chị em như thế làm sao tránh khỏi tiếng bất hiếu, vô tình, vô nghĩa? Để làm sáng tỏ điều này, Thánh Sử Matthêu trong chương 10 câu 37 giải thích việc “ghét” hay “dứt bỏ” này như sau, “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy.” Như thế, “ghét” ở đây có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, kể cả người thân và mạng sống.

Cuộc sống con người là một chuỗi những chọn lựa. Chọn điều này thì phải bỏ điều kia. Có những điều xấu phải bỏ như rượu chè, bài bạc, hút chích, xì ke, nói hành nói xấu... Cũng có điều tốt phải bỏ để chọn cái tốt hơn như chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn thái độ sống hoặc bậc sống cho riêng mình. Sống là chấp nhận từ bỏ. Có những từ bỏ nhẹ nhàng và thanh thoát, nhưng cũng có những từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh, vì từ bỏ khiến ta đau khổ hoặc luyến tiếc, như khi bỏ chiếc giường ấm êm để dậy đi lễ sớm; khi phải tắt tivi, ngưng máy tính, ngừng chơi games để đọc kinh tối với gia đình; hoặc phải kiềm chế dục vọng để gìn giữ trinh tiết cho nhau của một đôi bạn đang yêu. Từ bỏ là cách diễn tả tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Nếu không yêu, từ bỏ là một niềm đau.

Thông thường, người ta thích chọn cái dễ hơn cái khó, cái tầm thường hơn cái cao cả, khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, và lợi ích cá nhân hơn là tập thể. Khi đưa ra điều kiện làm “môn đệ chất lượng cao,” Chúa Giêsu đòi buộc “ứng sinh” phải từ bỏ “hết những gì mình có.” Người biết đó là chọn lựa khó khăn nên căn dặn họ phải tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát: muốn xây tháp cần có tiền, muốn thắng trận phải có lính, muốn theo Chúa phải từ bỏ; từ bỏ ý riêng, tự do, những điều mình ưa thích nếu chúng đi ngược với Lời Chúa, hay làm cho mình xa cách Người. Không thế thì “không thể làm môn đệ tôi được.”

Chỉ trong một đoạn Tin Mừng ngắn mà Chúa nhắc tới ba lần cụm từ, “thì không thể làm môn đệ tôi” cho thấy tầm quan trọng của việc trở thành “môn đệ chất lượng cao” của Chúa là thế nào. Quả thật, cuộc sống này đáng yêu, của cải vật chất là cần thiết, và người thân là quý giá và đáng trân trọng; nhưng yêu Chúa và chọn Chúa cùng với những giá trị Tin Mừng mới là điều Chúa mong mỏi nhất nơi người môn đệ mang danh Kitô. Xin cho chúng ta trở thành “môn đệ chất lượng cao” khi dám chọn Chúa giữa những lựa chọn thường ngày, và dám vác thập giá theo chân Chúa bằng những từ bỏ nho nhỏ, để từ những từ bỏ nhỏ đó chúng ta sẽ dễ dàng từ bỏ lớn hơn.
________ 
*Dứt bỏ: dịch sát nghĩa là “ghét.”
A. Ngọc Hạnh, LCSP
07/11/2012


Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục. Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.

“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô. Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách. Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô”.

Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên. Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên Chúa. Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý. Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước tự do này. Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện lên họ tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.

Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.

Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài”. Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có những người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó. Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi. Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa. Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì ? ”.

Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa. Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi. Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người bình dân. Siêu đẳng như tôi thì không cần. Càng ngày tôi cũng càng ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các đấng bề trên. Chuyện gì đến cũng đã đến. Tôi không muốn sa vào những phân tích vụn vặt. Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này: Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài. Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.

Chẳng vậy, mà trong Phúc Âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: “Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện”. Chính Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha. Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.

Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao. Chúng ta cũng nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính. Chính sự cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh.

Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã viết trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” :

Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa. Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rỏ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí “dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa” (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm hồn. Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ. Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng”.

Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.

Lời bàn:

Những lời cảnh báo này thật đáng suy nghĩ. Bao nhiêu lần tôi đi dự lễ ngày Chúa Nhật mà chỉ mong cha làm cho nhanh nhanh để tôi về còn lo làm chuyện khác. Tôi có chuyện gì đáng lo hơn là phần rỗi linh hồn của tôi.

Tôi có một công việc rồi, còn muốn kiếm thêm một công việc nữa đến nỗi không còn có giờ cầu nguyện nữa. Sống như điên, cày như điên như thế có phải là cuộc sống được chúc phúc không.
Đặng Tự Do


Thứ hai sau CN XXX TN: Lc 13: 10 - 17

“Đã có sáu ngày phải làm việc thì đến mà xin chữa bệnh ngày đó, đừng có đến vào ngày Sabat!” (Lc 13, 14)

Suy gẫm đoạn Lời Chúa hôm nay mà giật mình. Lối hành xử của mình với tha nhân vẫn thường là như thế: hạch sách, hống hách, vô cảm, vô tâm, và cửa quyền.

Ngày Ba mất, đang lúc Ba hấp hối, cả gia đình bối rối, bé đến bảo, “Dì Út ơi, mở cái file này cho bé với. Sao bé không làm được.” Máy khởi động chậm rì. Trong kia, Ba đang khó nhọc thở những hơi cuối cùng. Giận quá, mình quát lên, “Tại sao suốt ngày rảnh rỗi và Ngoại không sao, bé không nhờ mà giờ này Ngoại đang hấp hối, bé lại nhờ?” Bé len lén nhìn mình, rồi đi vào phòng, nơi cả nhà đang giọt ngắn giọt dài bên Ba. Mình quỳ bên Ba đọc kinh cho Ba và trấn an gia đình, lòng vẫn không thôi áy náy vì thương cháu bị la, thương mình vì không kiềm được cơn giận, và thương Ba đang dần rời xa…

Những ngày làm việc tại Food Pantry, quần quật từ 7:15am - 10:30am. 8:00am Food Pantry mở cửa và10:30am đóng cửa. 10:30 dọn dẹp khâu cuối cùng xong, mình chỉ mong lên xe vọt về. 10:35, một phụ nữ lao vào… Người làm đã về hết, thức ăn cũng đã được dọn cất vào kho… Bực. Nhủ thầm, “Đã có hai tiếng rưỡi phát thức ăn, sao không đến nhận vào giờ đó, mà đợi đến giờ đóng cửa mới đến?” Nhìn người phụ nữ rướm nước mắt, vừa hối lỗi, vừa nài nỉ, “Sơ ơi, xin lỗi Sơ vì con đến trễ. Thật cám ơn Sơ nhiều quá. Gia đình con không còn một tí thức ăn, may nhờ Sơ thương nán lại phát thức ăn cho, chứ không, con chẳng biết làm sao. Chắc mấy đứa con của con phải đói mà đi học,” nỗi bực tan biến.

Và nhiều lần như thế…

Thầy Giêsu ơi, nếu Thầy là con, hẳn Thầy đã không hành xử như thế, dù chỉ trong tâm tưởng. Nhiều khi con cứ tưởng mình là ai kia để tự cho phép mình trách móc, hạch sách, hống hách, vô cảm, vô tâm, và cửa quyền với người khác. Khi con hành xử như thế, bản thân con có mấy vui và bình an đâu? Sao con không theo gương Thầy, nói một lời dịu dàng dễ nghe, hy sinh một chút, nhẫn nhịn một chút, bênh đỡ một chút, “Thế ngày Sabbat, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống? Còn bà này, là con cháu ông Abraham, bị Satan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sabbat sao?” (Lc13, 15-16). Lòng con đầy hổ thẹn. Hổ thẹn hơn, khi Thầy chưa một lần trách móc con, “Đã có 20 giờ trong ngày để ăn, chơi, ngủ, nghỉ thì ăn, chơi, ngủ, nghỉ trong giờ đó; đừng có ngủ và “bán ve chai” trong giờ thăm viếng Ta.”

Xin cho con biết hành xử như Thầy. Mỗi khi xảy ra điều bất như ý, xin cho con biết đặt mình vào vị trí của Thầy, “Nếu Thầy là mình, Thầy sẽ xử sự như thế nào?” để mà hành xử cho đúng đắn và tránh gây thương tổn cho người. Xin cho con cũng biết sử dụng thời gian Thầy ban cách hợp lý. Không lấy giờ công làm việc riêng, nhất là không cắt xén thời gian dành cho Thầy – trong Thánh Lễ, suy gẫm, cầu nguyện, xét mình, và Chầu Thánh Thể.
A. Ngọc Hạnh, LCSP
29/10/2012

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.